Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2007

MỘT GÓC NHÌN VỀ VUA VIỆT NAM THỜI KỲ PHONG KIẾN


ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật - ĐHQGHN
Nguồn: Dân chủ và Pháp luật,
Số 1, Số Chào Xuân năm 2008, tr.49-52

Lời toà soạn: Lâu nay, khi nói về Vua Việt Nam - người đứng đầu nhà nước trong chế độ phong kiến, nhiều ý kiến cho rằng, quyền lực của nhà vua là tuyệt đối và không bị hạn chế bởi bất kỳ yếu tố nào. Tác giả bài viết có một cách nhìn khác cho rằng, quyền lực của nhà vua cũng bị hạn chế và có nhiều điểm đặc thù so với Vua của Trung Hoa và các nước Tây Âu thời kỳ phong kiến. Từ sự luận giải này, tác giả cũng tham chiếu và gợi mở vấn đề tạo điểm nhấn trong tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay phù hợp với xu thế dân chủ hóa, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tăng cường trách nhiệm người đứng đầu nhà nước.

NHÀ NƯỚC VĂN LANG - NHÀ NƯỚC SIÊU LÀNG (PHẦN 2)

ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội
Nguồn: Tạp chí Khoa học,
Đại học Quốc gia Hà nội,
chuyên san Kinh tế - Luật, Tập 23, Số 3, năm 2007
,

2 - Sự liên kết làng nước mang tính chất hoà đồng, lưỡng hợp:

Theo Việt Sử Lược, bộ sách lịch sử lâu đời nhất do người Việt viết còn lưu truyền được đến ngày nay đã nêu rõ: "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696 - 682 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương" [9; tr.18]. Như vậy, về mặt trình độ tổ chức, nhà nước Văn Lang đã thể hiện rõ nét tính chất tổ chức cao hơn cách tổ chức trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ.

NHÀ NƯỚC VĂN LANG - NHÀ NƯỚC SIÊU LÀNG (PHẦN 1)

ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội
Nguồn: Tạp chí Khoa học,
Đại học Quốc gia Hà nội,
chuyên san Kinh tế - Luật, Tập 23, Số 3, năm 2007.

Có thể truy cập, xem toàn văn đầy đủ tại đây

Đối với bất kì một quốc gia nào, vấn đề xác định thời điểm, nguyên nhân ra đời, đặc biệt là những đặc trưng cơ bản của nhà nước đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi hai lí do thứ nhất, kể từ thời điểm đó về phương diện phân kì lịch sử, xã hội bước vào một thời kì mới - thời đại văn minh; thứ hai, sự ra đời của bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng ảnh hưởng, thậm chí quyết định đến tính chất, đặc trưng của sự vật đó sau này, nhà nước cũng không phải là ngoại lệ, và muốn hiểu được di tồn của nhà nước trong lịch sử đối với hiện tại, thì việc làm sáng tỏ những đặc điểm ngay từ khi nhà nước ra đời là một việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một câu hỏi đặt ra cần thiết phải được làm rõ đặc tính nào là đặc tính quan trọng nhất của nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam?

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2007

TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN TRUNG ƯƠNG THỜI NGUYỄN

Nguyễn Minh Tuấn

Bài viết ngắn dưới đây giới thiệu những nét cơ bản nhất về tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn như những định hướng ban đầu để khi có điều kiện, sinh viên tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu kĩ hơn.
--------------------

 1. Tình hình lịch sử

Thuận lợi lớn nhất thời kỳ này là đất nước rất rộng và giàu tiềm năng. Tuy nhiên điểm hạn chế đó là khi lên nắm quyền, nhà Nguyễn đã không được người dân ủng hộ, do chống lại phong trào Tây Sơn, phong trào khởi nghĩa của nông dân cùng chính sách trả thù rất tàn bạo.

2. Tổ chức chính quyền trung ương 
 
Đứng đầu là vua (Hoàng đế) nắm mọi quyền hành trong tay, dưới vua là Lục bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) do Thượng thư đứng đầu, có các Tham tri, thị lang giúp việc. 


Dưới các Bộ có Lục Khoa (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) do Cấp sự trung đứng đầu và Lục Tự (Thái thường, Đại lý, Quang lộc, Hồng lô, Thái bộc, Thượng bảo) do Tự khanh đứng đầu chuyên trách từng việc, chịu trách nhiệm trước vua. Khoa có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm soát công việc của các Bộ và các cơ quan nhà nước khác ở trung ương. Ngoài các Bộ, Khoa, Tự còn có các cơ quan chuyên môn gọi là Viện, Giám, Ty, Phủ. (Gồm có: Hàn lâm viện coi việc biên soạn, thảo văn từ, sắc, mệnh của vua, thảo luận kinh điển. Quốc tử giám: coi việc dạy kinh sách, đào tạo nhân tài... Khâm thiên giám trông coi việc quan sát tinh tú, khí tượng, làm lịch. Thái y viện nghiên cứu việc trị bệnh tật, thuốc thang chủ yếu để phục vụ nhà vua và hoàng tộc...). Ngoài ra còn có các cơ quan chuyên trách như Viện cơ mật, Tôn nhân phủ, Quốc sử quán, Thái sư viện.


TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN TRUNG ƯƠNG THỜI VUA LÊ - CHÚA TRỊNH

Nguyễn Minh Tuấn

Bài viết ngắn dưới đây giới thiệu những nét cơ bản nhất về tổ chức chính quyền trung ương thời Vua Lê - Chúa Trịnh như những định hướng ban đầu để khi có điều kiện, sinh viên tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu kĩ hơn.

------------


1. Về địa vị pháp lí của vua và chúa:

Bắt đầu từ năm 1600 trở đi, vua phong vương cho chúa. Vương ở đây không phải là vua, nó chỉ là một tước vị cao nhất vì trên danh nghĩa, chỉ có Hoàng đế mới được coi là vị vua độc tôn duy nhất và có niên hiệu, trong khi đó vương chỉ là bề tôi của nhà vua. Về hình thức cũng có sự phân biệt: vật tượng trưng cho uy quyền của vua là bảo ấn, bảo kiếm còn vật tượng trưng cho quyền hành của chúa Trịnh là chén ngọc và búa vàng được vua ban, về y phục thì y phục của vua màu vàng, của chúa là màu tía.

Sau này trong tất cả các bài chiếu lên ngôi của vua Lê đều có một kết luận: nhà vua kế thừa sự nghiệp của tổ tông, lên ngôi báu để gìn giữ tông miếu xã tắc, phát huy đức độ, thừa hưởng và bảo tồn uy phúc của tổ tiên. Còn việc trị quốc an dân, nhà vua hoàn toàn nhờ cậy Trịnh Vương.



TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN TRUNG ƯƠNG THỜI LÊ SƠ

Nguyễn Minh Tuấn

Bài giới thiệu ngắn dưới đây trình bày những nét cơ bản về tổ chức chính quyền trung ương thời Lê Sơ như những định hướng ban đầu để khi có điều kiện sinh viên tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn.
------

Nói đến thời Lê sơ, người ta thường nhắc đến tính chất hoàn bị của bộ máy thời kỳ này. Sở dĩ thời kỳ này có được sự phát triển mạnh về nhiều phương diện kinh tế, chính trị, xã hội và xây dựng được bộ máy hoàn bị là do thời kì này hội đủ 3 điều kiện đó là: nhà nước có một vị minh quân, một hệ thống đội ngũ quan lại có tài, có đức và quan trọng là có một hệ thống pháp luật tiến bộ, cùng với việc thực thi nghiêm minh.

TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN TRUNG ƯƠNG THỜI LÝ TRẦN


Nguyễn Minh Tuấn


Bài viết ngắn dưới đây giới thiệu những nét cơ bản nhất về tổ chức chính quyền trung ương thời Lý - Trần.
--------------------- 
Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô về Đại La; chia lại khu vực hành chính trong cả nước, đổi 10 đạo thời Đinh - Lê thành 24 Lộ. Sự thay đổi này của triều Lý có tính chất quyết định cho sự chuyển đổi từ một mô hình chính quyền quân sự sang một mô hình chính quyền tập quyền thân dân.
Việc chọn Đại La (sau đổi tên thành Thăng Long) làm kinh đô là để phát triển đất nước, lấy phát triển để tạo ra khả năng quốc phòng, đảm bảo an ninh. Nhà Lý đã khéo léo giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa với vấn đề an ninh - quốc phòng. Chính sức mạnh kinh tế mới là nhân tố mang ý nghĩa quyết định đến khả năng phòng thủ vững chắc đất nước trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077).

MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ

Nguyễn Minh Tuấn

Bài viết ngắn dưới đây giới thiệu những nét cơ bản nhất về tổ chức chính quyền trung ương thời Ngô - Đinh - Tiền Lê như những định hướng ban đầu để khi có điều kiện, sinh viên tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn.
---------------------
Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê là thời kỳ đất nước gặp nhiều khó khăn sau một thời gian dài chịu sự cai trị của chính quyền Trung Hoa. 

Để bảo vệ chủ quyền còn non trẻ bên cạnh một nước lớn như Trung Hoa, việc xây dựng mô hình chính quyền quân sự có tính tự vệ là một phản ứng tự nhiên và là sứ mệnh có tính lịch sử. 

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2007

TÒA ÁN VÀ XÉT XỬ THỜI PHONG KIẾN

Nguyễn Minh Tuấn

Dưới thời Đinh, quyền tư pháp tập trung triệt để trong tay nhà vua. Nhà vua đích thân xem xét việc trừng phạt các vụ phạm pháp, và việc trừng phạt các can phạm được diễn ra ngay trước cung điện nhà vua. Đến thời Tiền Lê quyền tư pháp tuyệt đối thuộc về nhà vua vẫn được áp dụng triệt để.

Dưới thời Lý (1010 – 1225), nhà vua tuy vẫn còn giữ lấy quyền xét xử các vụ kiện tụng trong nước như các vị vua đời trước, nhưng đã san sẻ bớt quyền này cho các quan địa phương.


Thời Lê Thánh Tông, cả nước chia thành 12 Đạo, mỗi đạo có một Tòa Đô, Tòa Thừa, Tòa Hiến. Tòa Đô coi việc binh, Tòa Thừa coi việc hành chính, Tòa Hiến coi việc hình án.